Nhóm lợi ích và sức ỳ của bộ máy

– “Để thực thi được cải cách đòi hỏi quyết tâm chính trị, và một hình thức liên minh các lực lượng muốn thúc đẩy cải cách” – Giám đốc Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Nguyễn Xuân Thành.






LTS: Trong
suốt thời gian qua, nhiều tiếng nói mạnh mẽ khẳng định sự cần thiết của
cải cách thể chế đã được cất lên từ những người nắm giữ trọng trách
trong Đảng, trong Quốc hội và Chính phủ. Như nhiều chuyên gia nhận định:
nếu tập hợp đầy đủ các tuyên bố cải cách của các nhà lãnh đạo cấp cao
thời gian qua đã đủ hình thành một chương trình cải cách toàn diện. Tuy
nhiên, ngay chính các nhà lãnh đạo cấp cao cũng phải thừa nhận cải cách
còn rất chậm chạp.


VietNamNet thực hiện cuộc bàn tròn về cải cách
thể chế với PGS.TS Phạm Duy Nghĩa, TS Huỳnh Thế Du và ông Nguyễn Xuân
Thành, Giám đốc Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright nhằm tìm ra
nguyên nhân và giải pháp khả thi cho thực trạng này. Đây cũng là nhóm
tác giả tham gia thực hiện báo cáo tư vấn chính sách cho Chính phủ Việt
Nam mới đây mang tựa đề: “Cải cách thể chế ở Việt Nam – từ tầm nhìn tới
thực tiễn”. Báo cáo này được thực hiện trong khuôn khổ hợp tác giữa Đại
học Harvard, Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc và Chính phủ Việt
Nam.







Dự án vô bổ vẫn cố làm
Nhà báo Việt Lâm: Khi
chúng ta đang bàn về cải cách thể chế thì ngay mới đây thôi, một loạt
sự vụ xảy ra khiến dư luận bất bình. Nào là lãnh đạo tỉnh Vĩnh Phúc bỏ
300 tỷ xây Văn Miếu trong khi biết công trình thiết yếu về dân sinh như y
tế, giáo dục đang khát vốn. Điều đáng nói hơn cả là một công trình to
như vậy đã lẳng lặng được xây cất trong 5 năm, đến khi khánh thành rồi
thì báo chí, người dân mới được biết. Rồi lãnh đạo Đồng Nai đồng ý cho
một nhà đầu tư vào lấp một phần sông Đồng Nai làm dự án. Hay Hà Nội chặt
bỏ cây xanh. Những câu chuyện vừa qua nói lên điều gì?


PGS.TS Phạm Duy Nghĩa: Ví dụ thứ
nhất nói tới chi tiêu công. Một đất nước có thể kém phát triển và chi
phí phát triển tăng cao nếu đầu tư công bị thiên lệch, có lợi cho thiểu
số, trải chi phí cho số đông dân chúng. Bất kỳ một đầu tư công nào cũng
dẫn đến những xung đột, lợi ích khác nhau, người được hưởng lợi và người
không được hưởng lợi. Những cuộc tranh luận như vậy đáng lẽ phải diễn
ra ở những cơ quan dân cử, ví dụ Hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc, phải
được tham vấn người dân thông qua những kênh truyền thông. Qua đó cho
thấy việc thảo luận về đầu tư công ở Việt Nam, kiểm soát đầu tư công của
cơ quan dân cử, sự tham gia giám sát của báo chí chưa hiệu quả.


Ví dụ thứ hai ở Đồng Nai nói đến chi phí, phí tổn
của phát triển. Một dòng sông nếu lấp đi thành khu đô thị chắc cũng có
lợi cho một số người nhưng cũng kéo theo hệ quả lâu dài cho tỉnh Đồng
Nai và những tỉnh lân cận, gây ra những phí tổn không thể bù đắp cho thế
hệ mai sau. Vì vậy, phát triển của VN nếu nhìn từ một tỉnh, một quốc
gia xuất hiện những tổn hại về môi trường và những chi phí khác. Những
cuộc thảo luận giữa những nhóm lợi ích đó cũng cần diễn ra. Nếu càng
minh bạch, càng có những kênh thảo luận đa chiều thì rủi ro lựa chọn
những dự án kém đó càng ít đi.


Vụ chặt cây ở Hà Nội là một hành vi của chính
quyền. Dưới sự cho phép của chính quyền, những người thợ mới chặt cây.
Có điều hành vi chặt cây giữa mùa hè nóng bỏng như thế dường như đã
không được lý giải một cách thỏa đáng về kinh tế, xã hội, văn hóa thậm
chí tâm linh. Nó cho thấy những hành động của chính quyền có khi cũng
chưa được cân nhắc kỹ, có khi có lợi cho một số người nhưng cũng gây tổn
hại cho cả cộng đồng.


Ở một khía cạnh khác của câu chuyện, khi dân
chúng nhìn thấy những hành vi đó, ngay lập tức họ có thái độ và cách tổ
chức bày tỏ sự phẫn nộ. Họ biết cách tập hợp lực lượng để buộc chính
quyền chịu trách nhiệm, ít nhất là đối thoại rồi dừng lại những hành vi
chưa thỏa đáng đó.


Ba ví dụ vừa nêu có thể khái quát bối cảnh VN
hiện nay. Đó là những cuộc thảo luận về mô hình tăng trưởng và ai được
hưởng lợi từ phát triển kinh tế hiện nay, thứ hai là những thay đổi
trong nhận thức của người dân, đòi hỏi chính quyền phải đối thoại. Tất
cả những cái đó là bối cảnh cải cách thể chế mới cần được thảo luận kỹ
hơn.


cải cách thể chế, chi tiêu công, Vĩnh Phúc xây Văn Miếu


PGS.TS Phạm Duy Nghĩa


Chuyên gia Nguyễn Xuân Thành: Những
câu chuyện xảy ra vừa qua cho thấy hai điều: Thứ nhất, phản ứng của
người dân, sức ép của xã hội đối với những quyết định chính sách, những
dự án đầu tư sai rành rành được thể hiện rất rõ. Có thể anh vẫn cố làm,
nhưng cũng không thể đặt vào thế sự đã rồi mà buộc phải điều chỉnh. Việc
ra quyết định chính sách không phải cứ làm đúng theo quy trình, theo
khung luật pháp hiện hữu là được. Những quyết sách sai rõ ra đó thì lập
tức anh sẽ chịu phản ứng xã hội.
Ở một khía cạnh nhẹ nhàng hơn, có
những chính sách không phải sai rành rành mà cần thời gian thẩm định,
đặc biệt là những dự án mà chưa chắc lợi ích hay chi phí sẽ nhiều hơn.
Ngày xưa, những dự án này nhà nước quyết là được. Nhưng hiện nay, những
dự án đó khi được đưa ra dư luận đều gây tranh cãi, từ những siêu dự án
như sân bay Long Thành đến những dự án nhỏ chuyển đổi từ công sang tư.
Theo
nhìn nhận của tôi, những ví dụ này cho thấy những chuyển động tích cực,
rằng sức ép xã hội buộc những người cầm cân nảy mực phải có sự điều
chỉnh, xem xét lại những quyết sách không hợp lý. Đấy là những chuyện
cách đây 10 năm chúng ta chưa thấy, cách đây 5 năm mới bắt đầu xuất hiện
và một năm trở lại đây thì xuất hiện ngày càng nhiều. Điều đó phản ánh
thực tế là sức ép, sự phản biện xã hội đối với chính sách ngày càng mạnh
mẽ hơn. Đứng trước sức ép đấy, nếu anh không có phản ứng, hay phản ứng
thụ động thì chỉ làm cho bất bình tăng lên. Bởi vậy, có lẽ đã đến thời
điểm hệ thống cần phải có những cải cách sâu rộng hơn.
TS Huỳnh Thế Du: Câu
cửa miệng của hầu hết những người làm trong khu vực công là nhà nước
của dân do dân vì dân, nhưng những ví dụ vừa nêu cho thấy việc thực thi
những khái niệm này đang gặp trục trặc.
Nếu nhiều người dân được
hưởng lợi thì họ không phản ứng quyết liệt như vậy. Có vẻ như có những
dự án rất vô bổ nhìn ở khía cạnh có ích cho số đông, cho kinh tế-xã hội
địa phương nhưng vẫn có rất nhiều người thích làm.
Vấn đề đặt ra ở
đây là phải làm sao cho những quyết định chi tiêu công hay những quyết
định quan trọng, ảnh hưởng tới số đông phải chịu sự giám sát, của số
đông. Nói cách khác, người dân phải có quyền, có tiếng nói. Nếu tình
trạng này cứ tiếp tục diễn ra, tôi e rằng sự bất bình, mất niềm tin sẽ
ngày càng tăng.
Thể chế tốt sẽ trừng phạt người quyết sai
Việt Lâm: Những
câu chuyện mà chúng ta vừa nhắc tới ở trên không phải là câu chuyện cá
biệt của một địa phương nào. Vậy vì sao những sự cố như vậy vẫn lặp lại?

Chuyên gia Nguyễn Xuân Thành:
Những quyết định về mặt chính sách của nhà nước nhiều khi không đơn
giản. Nhiều khi chúng ta hay tự hỏi tại sao dở như thế mà lại làm. Nhưng
lúc người ta quyết định, người ta không nghĩ là nó dở, cũng không cảm
nhận được phản ứng của xã hội như thế nào, ngoại trừ những trường hợp có
động cơ cá nhân.
Nếu so sánh với các nước khác, kể cả những nước đã
phát triển như Mỹ, chúng ta sẽ thấy những dự án đầu tư công không dẫn
đến đâu cũng hay xảy ra lặp đi lặp lại. Vấn đề là một hệ thống thể chế
tốt sẽ có sự trừng phạt đối với những quyết định ấy.
Khi có sự phản
biện của xã hội thì các chuyên gia, các cơ quan nghiên cứu độc lập sẽ có
những phân tích khách quan để chỉ ra đấy là quyết định sai, chỉ rõ ra
chi phí, tổn thất mà quyết định anh tạo ra lớn hơn nhiều lợi ích cho một
nhóm nào đấy. Khi sự việc được phân tích rõ ràng thì một hệ thống thể
chế tốt sẽ có hình phạt đối với tổ chức, cá nhân đưa ra quyết định đấy.

do người ta làm được việc ấy, thứ nhất là hệ thống thể chế cho phép,
thứ hai là anh có thể quy trách nhiệm đến một tổ chức cụ thể, một cá
nhân cụ thể. Như vậy nó sẽ tạo ra những tiền lệ. Sau đó người ta nhìn
vào đấy để biết anh làm như vậy thì sẽ bị trừng phạt. Thể chế sẽ trừng
phạt anh chứ không phải thể chế sẽ bảo vệ anh dù anh làm sai.


cải cách thể chế, chi tiêu công, Vĩnh Phúc xây Văn Miếu


Giám đốc Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Nguyễn Xuân Thành.


Lợi ích cá nhân, trách nhiệm tập thể
Việt Lâm: Nhân
nói chuyện trừng phạt, vấn đề ở đây là để chỉ đích danh cá nhân nào
chịu trách nhiệm dường như rất khó. Ví dụ như vụ chặt cây xanh ở Hà Nội,
người đứng đầu Chính phủ yêu cầu truy đến cùng cá nhân nào chịu trách
nhiệm nhưng đến báo cáo kết luận thì dường như trách nhiệm lại thuộc về
tập thể.

PGS.TS Phạm Duy Nghĩa: Trách nhiệm
giải trình là gì? Trách nhiệm giải trình nghĩa là trước dân chúng anh
phải cắt nghĩa được lý do gì anh quyết định hành vi đó, chính sách đó.
Ví dụ anh bảo trông cây vàng tâm, hay cây mỡ nào đó, thì anh phải giải
thích cho dân chúng hiểu.
Thứ hai, giả sử chính sách đó sai thì anh
phải chịu trách nhiệm. Trách nhiệm ở đây nghĩa là phải có người chịu hậu
quả bất lợi. Đó có thể là trách nhiệm chính trị, ví dụ như anh mất đi
sự tín nhiệm của dân chúng, anh phải từ chức. Trách nhiệm về hành chính
nghĩa là anh phải bị khiển trách, kỷ luật, thậm chí giáng chức, đuổi
việc. Trách nhiệm về vật chất thì anh phải đền bù,… những thứ đó người
ta gọi là trách nhiệm giải trình – một cơ chế ràng buộc những người nắm
trong tay quyền lực công phải chịu trách nhiệm trước cử tri.
Quay trở
lại vụ chặt cây xanh Hà Nội. Hiện nay chúng ta có một cơ chế không rõ
ràng về trách nhiệm giải trình, bắt đầu từ chỗ người đưa ra chính sách
không phải giải thích. Thậm chí người ta còn không nghiên cứu kỹ một
trách nhiệm nữa là con đường Nguyễn Trãi nối Hà Nội với Hà Đông thậm chí
bị chặt trụi hết cây. Sau này, người ta mới phát hiện ra trong hồ sơ
nhà thầu làm tàu điện trên cao không hề có đánh giá tác động môi trường.
Đáng ra, nếu anh bắt buộc nhà thầu có đánh giá tác động môi trường thì
có khi người dân đã biết để yêu cầu nhà thầu bảo vệ những cây xanh đó.
Giả
sử làm sai rồi thì phải có một cơ chế cá thể hoá ai chịu trách nhiệm.
Hiện nay, dường như cơ chế của chúng ta quá nhiều người quyết nên mới
sinh ra quá nhiều cuộc họp. Cán bộ đi họp nhiều đến mức mỗi bộ có đến 5
-6 ông thứ trưởng chủ yếu để đi họp. Lý do phải đi họp nhiều là các cuộc
họp đưa ra quyết định của tập thể. Quyết định tập thể sẽ góp phần che
dấu đi trách nhiệm của người chịu quyết định. Nói tóm lại, bệnh họp
nhiều bắt nguồn từ một cơ chế không muốn ai chịu trách nhiệm. Cơ chế đó
có lợi cho từng cá thể nên không ai muốn thay đổi cả.
Muốn tiến tới
trách nhiệm giải trình rõ hơn, ngoài những ý như anh Thành nói thì cần
phải làm rõ trách nhiệm cá nhân đứng đầu. Trở lại trường hợp chặt cây
sai, nói một cách thẳng thắn thì người chịu trách nhiệm chính trị phải
là ông lãnh đạo chính quyền bởi ông chịu trách nhiệm chính trị cho những
hoạt động diễn ra trong khuôn khổ thành phố; người chịu trách nhiệm
hành chính ví dụ người trình văn bản đó là ông giám đốc sở xây dựng nếu
trong phạm vi của ông ta vì ông ta chỉ chuyên môn giúp việc cho chính
quyền chứ ông ta không có quyền quyết định; còn nếu trách nhiệm hình sự
ai lợi dụng việc chặt cây đó để bán lấy tiền thì phải chịu trách nhiệm
cá nhân của từng người trước pháp luật. Cơ chế chịu trách nhiệm như thế ở
VN một là chưa được nghiên cứu rõ; hai là quy định còn hết sức chung
chung và thứ ba là có lợi cho những người trong bộ máy nên nó nhùng
nhằng, khó thay đổi.
TS Huỳnh Thế Du: Trong các
nghiên cứu về lựa chọn các quyết định tập thể chỉ ra rằng trong tập thể,
tất cả mọi người đều suy nghĩ hợp lý vì lợi ích của mình và thường đưa
ra các kết quả phi lý về mặt tập thể, có nghĩa là những thứ sai rành
rành vẫn xảy ra.
Câu chuyện ở đây là trách nhiệm giải trình. Chúng ta
đều thấy rằng với mỗi công chức, mục tiêu quan trọng nhất là thăng
tiến. Vấn đề là trong hệ thống chúng ta, việc thăng tiến là do cấp trên
quyết định chứ không phải do người dân hay đối tượng tôi trực tiếp phục
vụ quyết định. Trong khi ở những xã hội phát triển thì những người tôi
phục vụ có quyền quyết định vị trí của tôi trong nhiệm kỳ tới.
Các cụ
ta có câu “ ăn cây nào rào cây ấy”. Cách đây mấy năm, khi xảy ra sự
kiện Đoàn Văn Vươn, chúng ta thấy phát biểu của một lãnh đạo Hải Phòng
chỉ chăm chăm làm sao bảo vệ cấp trên của mình, bất chấp dư luận. Cái cơ
chế đó đảo ngược hết hành vi của tôi, tôi sẽ cố gắng bao biện, đùn đẩy
cho trách nhiệm tập thể. Đương nhiên, tôi có lợi ích cá nhân trong trách
nhiệm tập thể. Thành thử dẫn tới hiện tượng có những quyết định trong
khu vực công dường như chỉ có lợi cho một thiểu số nào đó, trong khi gây
tổn hại cho toàn xã hội.


cải cách thể chế, chi tiêu công, Vĩnh Phúc xây Văn Miếu


TS Huỳnh Thế Du (Đại học Harvard)


Sức ỳ bộ máy và sự chống đối của nhóm lợi ích
Việt Lâm: Những
vấn đề chúng ta vừa phân tích ở trên tôi tin là nhiều người trong bộ
máy đã cảm nhận thấy. Bằng chứng là thời gian qua, có nhiều tiếng nói
trong hệ thống lên tiếng về cải cách thể chế. Chẳng hạn, người đứng đầu
Chính phủ đã nhiều lần nêu thông điệp rõ ràng về sự cấp bách phải cải
cách thể chế cũng như vạch ra đường hướng cải cách. Một số bộ trưởng
cũng đăng đàn đề cập đến chủ đề này. Nhưng tại sao đã có những tiếng nói
cải cách mạnh mẽ từ những người nắm giữ trọng trách mà cải cách vẫn
chậm chạp như thế, nhọc nhằn như thế?

Chuyên gia Nguyễn Xuân Thành:
Cần hiểu rằng từ việc đưa ra được những tuyên bố, chuyển nó thành văn
bản rồi đến thực thi các chương trình cải cách là cả một quá trình. Quá
trình ấy bắt đầu bằng việc anh nhìn nhận được những yếu kém, bất cập đã
xảy ra trong thời gian qua và đánh giá được hậu quả của những bất cập đó
gây ra cho nền kinh tế. Rồi đi đến một bước nữa là anh cảm nhận được
nếu như không thay đổi thì sự bất bình của dân chúng ngày càng gia tăng.
Tiếp theo là một quá trình đấu tranh ý thức hệ, anh phải thay đổi cách
nhìn, điều chỉnh lại cách suy nghĩ trước đây. Từ đó, anh đưa ra được các
tuyên bố, rồi từ tuyên bố ấy, trải qua một cuộc đấu tranh ý thức hệ nữa
mới đưa được thành văn bản, chính sách. Rồi khi chính sách đi vào thực
hiện có thể gặp phải hai lực cản: một là sức ỳ của bộ máy, hai là phản
ứng chống đối của các nhóm bị thiệt hại.
Qua quan sát của chúng tôi,
đến thời điểm này đã có một sự chuyển đổi trong nhận thức, trong ý thức
hệ. Nhiều người trong bộ máy đã cảm nhận được những yếu kém, bất cập, có
thể chưa đến mức không cải cách thì hậu quả lớn nhưng họ cũng cảm nhận
được rằng nếu không cải cách thì đất nước sẽ trì trệ, bất bình sẽ gia
tăng. Như chúng tôi đã nói rõ trong bài phân tích của mình rằng nếu
không có sự thay đổi, tính chính danh của Đảng, của chính quyền sẽ được
đánh dấu hỏi.
Chính vì vậy mà thời gian qua, có những tiếng nói cải
cách rất mạnh mẽ thậm chí con đường đi cụ thể cũng đã được tuyên bố
thành văn bản. Cản ngại hiện tại là sức ỳ bộ máy và sự chống đối của
những người bị thua thiệt. Để thực thi được cải cách đòi hỏi sức mạnh
của bộ máy và quyết tâm chính trị, cộng với một hình thức liên minh các
lực lượng muốn thúc đẩy cải cách, mới có thể vượt qua được các lực chống
đối.




  • VietNamNet








Share on Google Plus

About Unknown

Bài viết này được chia sẻ bởi Unknown.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét