HẬU CHUYỆN KỂ NĂM 2000

(Thời biến đổi gien)





Kỳ 7





Bùi Ngọc Tấn


Thời ấy điện là thứ xa xỉ. Chỉ có một tí vào buổi
tối nhưng cũng cách nhật. Điện hầu như chỉ thực hiện một chức năng
nhiệm vụ để mọi người không quên xử dụng công tắc như cách nói của
Nguyên Bình.Và làm người ta nhức nhối thần kinh khi từ nhà mình quạt nan
phì phạch tối thui mồ hôi ròng ròng, con khóc ời ợi, muỗi vo ve bên
tai, nhìn sang những nhà ưu tiên có điện sáng trưng quạt máy vù vù,
cát-xét oang oang, fi-dơ làm đá chạy suốt ngày đêm như nhìn sang một
hành tinh khác, chứng kiến cuộc sống một loài sinh vật cao đẳng dù họ
chỉ là một cán bộ uỷ ban, một chủ tiệm giải khát hay một hộ làm nghề uốn
tóc, một anh làm toà án, một anh thuộc Sở Điện Năng vẫn thường được mọi
người gọi bằng cái tên đầy “tình cảm”: Sở Điên Nặng.





Tôi thắp đèn dầu ngồi viết. Sáng ra rửa mặt,
ngoáy mũi, khăn mặt đen sì vì khói dầu. Không điện nghĩa là không quạt.
Mồ hôi rỏ giọt xuống bản thảo. Chân tay dính bết. Không sao. Tôi không
phe phẩy chiếc quạt nan mà ngồi lì cả tiếng đồng hồ trên sàn trước ngọn
đèn dầu và xếp giấy trắng. Viết văn với tôi giống một công việc khổ sai.
Lại cũng giống như thi đấu thể thao. Phải căng hết sức ra luyện tập.
Kiên trì ngày này sang ngày khác. Không được lười. Có đến một vạn lý do
để tặc lưỡi gác công việc lại. Thành tích là từ những nỗ lực rất nhỏ.
Không phải tự nhiên mà đạt được tới cái trần của mình. Ở xí nghiệp, tôi
có bàn để viết. Còn về nhà, bàn viết của tôi là cái ghế xa lông gỗ gõ
tôi gửi anh em tầu cá mua từ Hố Nai chở ra, niềm tự hào một thời của gia
đình tôi, nó làm sáng cả căn buồng. Tôi ngồi bệt xuống sàn lim. Tôi thó
vài chục tờ giấy Bãi Bằng của xí nghiệp đem về nhà. Tôi viết bằng bút
bi — cũng của xí nghiệp phát. Tôi miệt mài cặm cụi tới khuya. Vợ tôi
buông màn nằm ngủ dưới sàn ngay sau lưng tôi. Khi thức, phe phẩy quạt
cho tôi. Rồi thiếp đi. Nửa đêm chợt tỉnh, thấy tôi vẫn lụi cụi cắm mặt
vào xếp giấy, vừa quạt cho tôi vừa cằn nhằn:


– Đi ngủ thôi bố nó. Mai còn đi làm.


Cũng có lúc còn bực bội vì lo cho sức khoẻ của tôi:


– Viết gì mà lắm thế. Còn chưa đủ hay sao.


Với chúng tôi, viết văn là đại hoạ. Thực tế đã
xẩy ra như vậy. Giờ đây cho dù đã có nhiều thay đổi nhưng vẫn còn đó bao
hiểm nguy bất trắc khôn lường.


Tôi chỉ cười bảo vợ tôi cứ ngủ đi và vẫn ngồi
viết. Thấy vợ thở đều đều, tôi yên tâm. Tôi viết mà luôn nghĩ chỉ vì cái
công việc hâm hâm này, gia đình tôi đã chịu biết bao tai hoạ. Tôi viết
mà luôn nghĩ rằng mình là người có lỗi. Thật đúng nghiệp chướng mình đã
trót mang. Cũng may, Sở Công An không cho người đến thăm hỏi lục vấn tôi
về chuyện tôi sáng tác nữa. Ngày tôi mới đi làm được ít lâu — một việc
ông Trần Đông và Sở Công An quyết ngăn cản nhưng không được vì sau lưng
tôi là ông Hoàng Hữu Nhân — rất nhiều lần các ông công an trên sở, trên
quận và cả anh hộ tịch nữa đến tận nhà thăm sức khoẻ tôi, hỏi tôi bằng
một giọng rất khó diễn đạt. Như thân mật, bỗ bã lại như hăm doạ:


– Anh sắp viết tiểu thuyết phải không?


Tôi sợ hãi chối đây đẩy. Như người ta đang ném bã rượu lậu, ném thuốc phiện vào nhà mình.


Người ta sợ tôi viết văn lắm.


Cái thời tôi còn đi tù, vợ tôi bị gọi lên tra hỏi
và ông Quang — còn có tên gọi là Quang Diệm — trưởng phòng bảo vệ văn
hoá Sở Công An đã nhiều lần nói thẳng với vợ tôi như thế này:


– Chị đừng tưởng anh Tấn nhà chị còn được cầm bút
viết văn nữa! Đừng mơ hồ như vậy! Không ai cho anh ấy viết! Chị hãy tin
lời tôi. Hãy nhớ lấy điều ấy!


Câu ấy đồng nghĩa với câu: “Anh Tấn nhà chị được sống đã là tốt lắm rồi!”
Đó là phán quyết của Cách Mạng, của Sắt Thép, của Đảng, của Thượng Đế,
là tiếng nói của quyền sinh quyền sát. Đâu phải hăm doạ. Là lời Đấng
toàn năng, là sức nặng của toàn bộ bộ máy chuyên chính vô sản đè lên
thân phận một kiếp giun dế nhỏ mọn đang quằn quại. Là số phận đã được
định đoạt, là sự thật được báo trước và chỉ có một con đường quy phục.


Vợ chồng tôi đều thích nghe những lời thẳng thắn.
Con dao hãy gọi là con dao. Đừng gọi là thập toàn đại bổ. Tôi nghĩ khi
nói những câu ấy, ông Quang tin là trật tự xã hội của các ông sẽ tồn tại
mãi mãi. Một trật tự xã hội của các ông, những ông Trần Đông, ông
Quang, ông An Mặt Ngựa và rất nhiều ông khác có toàn quyền cho ai sống
người ấy được sống, bắt ai chết người ấy phải chết, các ông an nhiên
sống trong quyền lực vô biên cho đến hết đời, cho đến vĩnh viễn mà không
ai dám đụng đến lông chân, ngay khi những cái lông chân của các ông đã
biến thành cát bụi. Chả cứ người nắm giữ quyền lực như ông Trần Đông,
ông Quang, ông An cùng với quan thầy của các ông. Ngay những người bị
các ông giầy xéo đầy đoạ, chúng tôi cũng nghĩ như vậy. Lòng đầy phẫn uất
nhưng nhìn vào cả một hệ thống các bầu trời, chúng tôi tự nhủ thôi thì
cố chịu đựng cho qua một kiếp.


Kiếp này không thay đổi thì kiếp sau sẽ phải thay
đổi. Các ông — và cả chúng tôi nữa — đâu ngờ cuộc đời rồi cũng đã thay
đổi, hơn nữa, thay đổi bất ngờ đến thế. Và cái ông Quang Diệm ấy đã nói
về những việc ông ta làm với tôi như thế này khi thời thế đổi thay, khi Chuyện Kể Năm 2000 đã được nhiều người đọc dù đã có quyết định thu hồi tiêu huỷ:


– Dạo ấy không làm thế tôi cũng chết.


Cứ cho là như vậy. Mà đúng là như vậy.


Cái dạ dày bắt ông phải làm. Nhưng sao ngày ấy
ông — cũng như ông An, ông Trần Đông — hãm hại tôi, khủng bố tôi khi tôi
đã ra tù, khi tôi đã được đi làm một cách mẫn cán, tỉ mỉ và quyết liệt
thế? Cũng may hôm nay ông chỉ thanh minh cho tội ác, chứ không khoe mình
từng có những tư tưởng dân chủ tiên phong và nâng cấp mình lên bậc nạn
nhân.


Người ta sợ tôi viết. Không chỉ sợ tôi viết
truyện ngắn truyện dài, mà sợ tôi viết bất cứ thể loại nào. Đâu phải chỉ
chuyện tù. Ai dám nghĩ đến viết chuyện tù vào những năm 70, 80, khi tất
cả vẫn được vận hành theo một nếp từ Việt Nam cho tới Trung Quốc, Liên
Xô, Hung, Tiệp, Lỗ…, tới tận bức tường Berlin. Riêng với tôi, viết cái
gì cũng là không được. Dù viết ngợi ca cũng là sự hồi sinh của một xác
chết. Nó phải chết hẳn. Nó không được sống lại. Nó sống lại thì lôi thôi
lắm. Vì nó nhắc mọi người đến cái chết bất đắc kỳ tử của nó. Không biết
khi đã gượng ngồi dậy, khi bước được những bước loạng choạng đầu tiên
rồi, nó sẽ còn bước tới đâu. Mà chỉ riêng chuyện tôi viết trở lại thôi
cũng là điều có thể ảnh hưởng tới uy tín, sự sáng suốt công minh của
những Đấng rồi. Không chỉ một Đấng. Nhiều Đấng lắm. Đấng nhỏ, Đấng to,
Đấng trung, Đấng đại, Đấng toàn năng là tất cả nhưng không là ai cả.
Nhất là việc tôi viết ngợi ca. Ngợi ca chứ không chửi bới bất mãn. Chửi
bới bất mãn lại tốt. Dễ vạch mặt. Dễ nói là thằng ấy phản động từ trong
bản chất. Bắt nó là hoàn toàn chính xác. Đã có rất nhiều cái mũ chờ sẵn
để úp lên đầu tôi. Ngợi ca, ca ngợi mới phiền… Đích thị là cái cớ để
người ta bàn tán về tôi, nhắc tới tôi, và từ đó nhắc đến những ngày gian
lao của tôi.


Thế nhưng trong những năm tháng ngặt nghèo và đói
nghèo ấy, những năm 70, 80 ấy tôi vẫn viết. Tất nhiên viết bí mật, viết
chui, ký tên khác. Một vài cái bút ký về xí nghiệp tôi. Còn chủ yếu là
viết tin. Gửi báo Hải Phòng, cơ quan cũ của tôi. Bởi vì bộ tứ xí nghiệp —
giám đốc, đảng uỷ, công đoàn, thanh niên, gọi tắt là Đảng, Chính, Công,
Thanh ([1])
— ai cũng biết tôi đã làm báo và giao nhiệm vụ cho tôi, ngoài tin tức
nội bộ phải viết tin thi đua gửi đăng báo. Tôi viết tin về các tầu đánh
cá khắc phục khó khăn hoàn thành vượt mức chuyến biển, về anh em công
nhân sửa chữa tầu, về phòng cung tiêu chạy vật tư và tiêu thụ sản phẩm.
Đào Công Ty, tên người trưởng phòng của tôi, một người từng
làm cơ yếu nhiều năm, tính tình cực kỳ chất phác. Vì cũng phải có một
cái tên tác giả. Để còn ra bưu điện lĩnh nhuận bút. Mà ông trưởng phòng
Đào Công Ty rất đứng đắn đáng tin, không lo ông ấy nẫng tay trên.— Nhuận
bút ít thôi, một đồng rưỡi một tin, nhưng mười tin đã là mười lăm đồng
rồi. Đấy là chưa kể cứ có tên Đào Công Ty trên báo là tất cả các vị
trong bộ tứ biết ngay rằng tin đó tôi viết. Tôi đã hoàn thành nhiệm vụ.
Giảm độ khắt khe trong cái nhìn đối với tôi nhất là khi tôi xuống tầu
xin cá. Thế mà cái việc viết tin đăng báo ký Đào Công Ty của tôi cũng
xẩy ra hai chuyện bất ngờ. Tôi những tưởng mình không bao giờ còn bất
ngờ về việc gì nữa. Đã có những bất ngờ nghĩ là tận cùng rồi nhưng vẫn
còn những bất ngờ khác, những bất ngờ bất ngờ hơn thế chờ đợi mình. Đời
luôn là những bất ngờ.—Vậy thì hãy sẵn sàng chờ đợi những bất ngờ mới
sắp đến, sẽ đến. Bởi cuộc sống này không bao giờ hết bất ngờ, cuộc sống
này luôn xảy ra những điều vượt xa sức tưởng tượng của con người.


Bất ngờ thứ nhất là báo Hải Phòng không đăng bất cứ tin nào tôi viết nữa. Dù ký Đào Công Ty
hay ký tên nào khác. Dù Nguyên Bình, khi ấy còn làm phóng viên báo, đã
cẩn thận chép lại những tin tôi gửi rồi mới đem nộp biên tập, nhưng ông
tổng biên tập chắc là do bỗng thấy xuất hiện một thông tín viên mới toe ở
xí nghiệp đánh cá, viết tin đều đặn, có chất lượng, hội đủ yếu tố cấu
tạo tin tức, rồi lại biết tôi được về xí nghiệp đánh cá làm thi đua,
hoặc vì một lý do nào khác mà tôi không biết — chẳng hạn như Sở Công An
có ý kiến sang — ông bảo Nguyên Bình cho xem bản gốc. Ông nhận ra chữ
tôi — trước đây ông ta với tôi cùng làm phóng viên với nhau.Tin tôi viết
không được dùng nữa.


Bất ngờ thứ hai từ ông Quang — vẫn ông Quang — trưởng phòng bảo vệ văn hoá và từ mấy ông công an khác. ([2]) Ông Quang và các cán bộ của ông nói với rất nhiều người về tôi: Thằng Tấn vẫn bất mãn lắm. Nó ký Đào Công Ty. Có nghĩa là Đì Công Tao.


Tôi không kêu trời nữa. Chỉ ngơ ngác tự hỏi: Sao
các vị ấy không viết tiểu thuyết nhỉ. Một phẩm chất của người viết tiểu
thuyết là trí tưởng tượng. Những vị ấy là bậc thầy về trí tưởng tượng,
những người mang trí tưởng tượng siêu phàm. Có những tác giả mang một
trí tưởng tượng bất kham ([3]) như
vậy chắc chắn nền tiểu thuyết của chúng ta sẽ sang trang. Các vị không
viết tiểu thuyết mà lại làm công an là tổn thất lớn cho văn học nước
nhà. Một tổn thất không gì bù đắp nổi.


Chưa hết. Vẫn còn một chuyện. Hôm ấy là Chủ Nhật.
Tôi có việc phải đi làm ở xí nghiệp. Trèo lên trèo xuống mấy mái nhà
sắp bị phá đi xây lại, để mắc lại loa truyền thanh. Lê Xuân Thuỷ, phó
chủ tịch công đoàn trực xí nghiệp hay bận việc gì đó cũng có mặt, dường
như thấy tôi mồ hôi mồ kê leo trèo vất vả, động lòng thương, đã rỉ tai
cho tôi biết một dư luận về tôi:


– Em nói với bác chuyện này. Bác phải tuyệt đối
bí mật, không được nói với bất kỳ ai. Trên an ninh làm việc với lãnh đạo
xí nghiệp về bác. Họ bảo bác lập ra Nhóm thơ Xa Lông. Cho nên bác phải hết sức cẩn thận.


Tôi choáng. Vã mồ hôi. Đứng lặng. Gáy lạnh. Đây
mới thực là điều nguy hiểm đến tính mạng. Tôi có thể vào lại nhà tù bất
kỳ lúc nào về cái nhóm thơ Xa Lông này. Nhóm thơ Xa Lông
là một tổ chức rồi. Một tổ chức có tên gọi hẳn hồi rồi. Giống như “Nhóm
chống Đảng” mà ông Lê Đức Thọ nói khi ông cho bắt các ông Đặng Kim
Giang, Vũ Đình Huỳnh, Hoàng Minh Chính… cùng với mấy người bạn tôi:
“Từ bất mãn cá nhân, chúng đi đến bất mãn với Đảng. Ngưu tầm ngưu, mã
tầm mã, bọn chúng tìm đến nhau. Thế là có tổ chức mà không có tổ chức,
không có tổ chức mà lại là có tổ chức. Tinh vi lắm. Nhưng không che mắt
nổi nhân dân đâu!”
([4])


Không chỉ vậy, tôi còn là người đứng đầu tổ chức vì tôi là người lập ra. Mà nhóm thơ của tôi chắc chắn bao gồm toàn những kẻ bất mãn mã tầm mã ngưu tầm ngưu,
gặp nhau để đọc thơ chửi chế độ. Chao ơi! Tôi hiểu. Lơ lửng trên đầu
tôi là thanh gươm Damoclès. Từ ngày được ông Hoàng Hữu Nhân cải tử hoàn
sinh, cho về Quốc Doanh Đánh Cá Hạ Long làm thi đua, tôi có đọc thơ bao
giờ đâu. Ở đây làm gì có bạn thơ. Mà cũng quên tiệt thơ rồi. Về đây gần
gũi những người hằng ngày phải đối mặt với khó khăn về thời tiết, về áp
thấp nhiệt đới, về bão, về gió mùa, về thiếu phụ tùng sửa chữa, không có
dầu đốt dù chỉ tiêu của mình còn, ammoniac cũng thiếu, cá nục lại chưa
thấy xuất hiện, về những chuyến đi biển dài ngày, ngắn ngày vừa kết
thúc, tôi chỉ nghĩ làm sao xin được cân cá và mang lọt ra khỏi cổng bảo
vệ, chứ đâu có nghĩ đến chuyện đọc thơ. Lại càng không thể có một nhóm
thơ xa lông trong xí nghiệp. Nhóm xin cá văn phòng thì có. Chúng tôi hay
đi xin cá theo từng nhóm cho đỡ ngượng! Xin cá. Và hỏi chuyện. Để viết
tin. Rồi với thói đam mê nghề cũ giờ đây có đất sống đã thoi thóp lại,
hỏi chuyện đời, chuyện nghề sông nước. Hỏi và ghi chép. Cũng cựa quậy
trong đầu một quyển tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa ngợi ca đấy. Nhưng thơ thì không. Xin thề với ông Trần Đông,([5]) xin
thề với ông Quang Diệm, ông An Mặt Ngựa, với các ông công an là không.
Tuyệt đối không. Nhưng biết thanh minh với ai bây giờ? Gặp ai? Gặp ai để
giải toả mối hiểm nguy này? Thôi! Thây kệ! Sự thật thế nào mọi người
đều biết. Tôi có một cố bệnh là tin vào sự thật. Đến chết tôi cũng vẫn
tin vào sức mạnh của sự thật. Nhưng buồn. Rất buồn. Vì người ta nhất
quyết đẩy mình sang hàng ngũ tội phạm phải đặc biệt theo dõi với những
thủ đoạn vu cáo, bịa đặt nham nhở trắng trợn, bẩn thỉu đê hèn, ngậm máu
phun người như vậy. Đấy là chuyện đã qua. Ngày hôm nay đã khác. Những
người theo dõi tôi là những người mới. Một thế hệ mới.


Viết đến đây tôi thấy rợn hết cả người khi nghĩ
đã có mấy thế hệ theo dõi tôi, săn đuổi tôi, vu cáo tôi. Họ đã già đi.
Đã về nghỉ, hưu trí an nhàn. Nhiều người đã chết. Một thế hệ khác tiếp
tục việc theo dõi. Rồi một thế hệ tiếp theo nữa. Đời này sang đời khác.
Tất cả đều là Gia-ve. Những Gia-ve với lòng dạ đen tối, không phải tìm
sự thật mà chỉ nhăm nhăm hãm hại người lương thiện.


Viết văn là việc không thể giấu được, bí mật được
hoàn toàn. Thế nào cũng phải thổ lộ với ai đó. Khoe với một người bạn
thân về một chi tiết, một trang mới viết nào đó… Sự trao đổi ấy — một
hình thức sáng tác miệng — trong khi cao hứng dễ thăng hoa và bất chợt
nghĩ ra những chi tiết mới, vụt đến một ý, một sự phát triển, một cách
giải quyết tuyệt vời mà khi bắt đầu ba hoa với bạn, anh chưa hề nghĩ
tới. Rồi sự gợi ý của bạn bè. Chỉ nguyên việc lắng nghe, đôi mắt long
lanh, nụ cười tán thưởng của bạn đã là nguồn động viên sáng tạo, nguồn
sức mạnh để mình hăng lên, để mình tự tin, kiên nhẫn bò từng dòng từng
chữ. Và những lời khuyên của bạn. Những lời khuyên và cả những chi tiết
nữa. Hứa Văn Định bảo tôi:


– Phải viết được cái hỏng của những người tù khi đã được tự do.


Anh lấy tay vỗ vỗ lên đầu, nói tiếp: Hỏng cái này này!
Hoàng Ngọc Thanh, người anh con bà cô tôi còn cung cấp cho tôi các chi
tiết về những tù nhân được tha bị hỏng cái đầu mà anh biết. Nguyễn Xuân
Khánh đưa ra những lời khuyên mang tính chỉ đạo, quán triệt:


– Viết về tù khó đấy. Có hai đề tài khó viết vì người ta viết mãi rồi,viết quá nhiều rồi. Đó là tình yêu và nhà tù


Lê Bầu không khuyên tôi điều gì. Anh rất khoái
những chi tiết của tôi. Hình như anh đã kể cho nhiều người nghe chuyện
hút thuốc lào đêm trong tù. Anh tù báo cáo vu vơ: “Tôi Nguyễn Văn Tuấn
số tù CR 880 dậy hút điếu thuốc thì một anh tù khác đang nằm vùng dậy
ngay “báo cáo tôi số tù… dậy bắt cái tóp của anh Tuấn.”


Tôi hình dung ra tiếng cười sảng khoái hồn nhiên
của Bầu. Rồi tôi được nghe chính tiếng cười ấy về “vụ” hút thuốc lào
đêm. Ấy là một lần tôi lên Hà Nội, đến nhà Bầu. Anh đang tiếp một người
bạn. Vị này nhắc lại câu chuyện hút thuốc lào ấy với anh mà anh đã kể
cho anh ta nghe như nhắc lại một chi tiết “rất sướng.” Bầu cười ngất và
chỉ vào tôi: “Đây, chính ông bắt tóp đây. Ha ha ha…”


Có việc lên Hà Nội tôi cũng mang theo xếp giấy
đang viết dở. Đến nhà Bầu, những lúc anh nấu cơm, tôi giở bản thảo ra
sửa, viết và đọc cho anh nghe. Tuy chỉ nghe lõm bõm nhưng Lê Bầu đã khoe
với nhiều người trong đó có nhà văn nữ Hoàng Ngọc Hà giám đốc nhà xuất
bản Hà Nội và vì vậy tập sách suýt nữa được xuất bản từ năm 1994.([6]) Tôi
viết. Và gần như không có thời gian nghỉ. Những năm 90 ấy, tôi còn duy
trì được một năng lực làm việc khá tốt: Hoàn toàn tập trung vào công
việc dù chung quanh có ồn đến mấy. Sự hoàn toàn tập trung nhiều khi kéo
dài suốt buổi cho dù viết ngay ở xí nghiệp. Tôi cắm mặt viết. Mặt tôi
nặng ra, máu dồn đỏ ửng, đến nỗi khi ngừng việc từ phòng công đoàn trở
về phòng mình, ông chánh văn phòng, sếp trực tiếp của tôi tưởng tôi vừa
uống bia ở căng tin.


Tôi viết. Cực nhọc, say mê và khoẻ ra. Dù công
việc hút toàn bộ tinh lực và tâm trí. Dù rất nhiều đêm tắt đèn rồi còn
trằn trọc, còn vấn vương suy nghĩ cho tới gần sáng. Những gì vón cục
trong óc, trong tim được trải trên những trang giấy đã có một độ dầy làm
tôi nhẹ đi, yêu đời hơn. ([7])
Tôi muốn hoàn thành nó càng nhanh càng tốt. Như người bắt đầu đặt chân
lên con đường dài mà đích còn xa lơ xa lắc, ao ước nhìn thấy nơi kết
thúc. Viết trang này chưa biết trang sau. Đang viết chương này cứ biết
kéo cho xong đã. Tôi viết không có bố cục nào định trước. Viết và nhớ
dần. Có khi hết một đoạn mà tôi đánh dấu bằng ba ngôi sao hay một khoảng
cách, nghĩa là hoàn chỉnh một sự phát triển rồi, lúc ấy cái ý của
chương sau mới đến.


Cũng có khi chương sau lấp ló sớm hơn, vào lúc
còn ở giữa chừng, tôi mới chỉ nhìn thấy đoạn kết thúc của chương trước.
Nó vụt đến kéo theo cả câu mở đầu. Câu mở đầu một chương quyết định nội
dung, định vị thời gian và cách kể chương ấy như câu mở đầu quyển truyện
định vị nội dung, thời gian và cách kể toàn bộ tập sách vậy. Thật thú
vị bởi tôi thường viết xong câu mở đầu của chương tiếp theo rồi mới
buông bút nghỉ. Thời gian nghỉ ấy — có thể là một vài ngày, một bữa bia
hay chỉ một hai tiếng đồng hồ — tôi nghĩ thêm, nghiền ngẫm thêm, gọi về
thêm những chi tiết khác. Chắc nhiều nhà văn giống tôi: Có những lúc đầu
óc mụ mị, băn khoăn vật vã không thể viết tiếp thì bỗng một ý, một câu,
một từ, một chi tiết không hề nghĩ tới loé sáng vụt đến, sang trọng,
đúng chỗ, sâu sắc… khiến mình phải quẳng bút, ngồi lịm đi trong yên
lặng, sung sướng như người vớ được… vàng.


Tôi viết theo kiểu cố lia cho xong cái phác hoạ.
Giống người nặn tượng, với đống thạch cao nguyên liệu, anh ta phải tạo
được một dáng hình tổng thể đã. Rồi ngắm nghía. Đến gần ngắm nghía. Lùi
xa ngắm nghía. Tỉa tót, đắp đổi, thêm bớt. Tôi không thể viết trang nào
được trang ấy, không xoá một chữ, xoá một chữ là phải chép lại cả trang
như nhiều nhà văn khác. Bản thảo của tôi chữ rất tháu. Khi viết, những ý
nghĩ cứ đến dồn dập trong đầu, ghi lại càng nhanh càng tốt. Sau hãy
sửa. Sau hãy ngẫm ngợi thêm ý. Sau hãy tìm từ. Rất nhiều móc vòng lên
vòng xuống. Nhằng nhịt quá đến mức chính tôi đọc cũng khó khăn và đành
phải chép lại. Thường cứ mỗi trang bản thảo đầu, chữa xong, chép lại
thành trang rưỡi, hai trang. Mà nào đã xong. Vẫn ngoằng, vẫn móc, vẫn
chèn thêm vào giữa. Có khi phát triển thành hẳn một chương mới. Gọi là
chương thôi, chứ bố cục của tôi cứ lẫn lộn quá khứ hiện tại và cả tương
lai nữa đan xen, chỉ cách nhau bằng một khoảng cách hay những ngôi sao,
lại có khi trộn như xôi đỗ, chẳng có khoảng cách nhỏ nào.


Khi đã viết được vài trăm trang, tôi tin chắc
mình đã tìm được một cách kể, một cách bố cục, một giọng điệu thích hợp
để chuyển tải nội dung câu chuyện và tôi bằng lòng với nó. Tôi nghĩ
trước tôi có lẽ chưa ai viết truyện tù mà mở đầu lại là ngày anh tù được
tha như tôi.([8])
Và cái nhà tù, những năm tháng tù đầy cứ bám lấy anh như hình với bóng,
không chịu buông tha. Chính nhờ sự định vị thời gian ấy đã làm nên vẻ
riêng biệt của quyển truyện của tôi mà sau này nhiều nhà phê bình gọi là
phương pháp đồng hiện.


Viết xong bản thảo đầu tập một — chỉ dài khoảng
300 trang — tôi đưa cháu Hà Như Hải. Cháu Hải là một cháu gái, sinh viên
đại học ngoại ngữ, con một người bạn tôi, đang tập đánh máy. Cả mẹ
cháu, cô Vũ Thị Nhung, một thư ký đánh máy chuyên nghiệp, còn đang đi
làm cũng tranh thủ trưa tối đánh máy cho tôi. Hai mẹ con cháu đọc được
mọi trang bản thảo loằng ngoằng, dập xoá móc lên móc xuống của tôi.


Tôi biết mình còn phải sửa nhiều. Suy nghĩ về một tình huống, một ý, một từ với tôi là một việc thú vị. Lê Đạt nói anh là phu chữ chỉ để nhấn mạnh việc khổ công tìm chữ mà thôi. Anh còn một câu nói rất hay về chữ: Chữ ([9]) bầu lên nhà thơ. Đọc anh tôi cũng muốn viết đôi dòng về chữ. Mỗi nhà văn có con đường đi tới chữ của mình, có thế giới chữ của mình. Chữ
đến với tôi từ mặt biển giữa trưa nắng, bốn chung quanh bầu trời cong
chụp xuống. Những con sóng bạc đầu, trên mỗi ngọn sóng lại xòe ra những
chùm nước nhỏ, tất cả lưu giữ ánh mặt trời sáng lòa như một trận mưa bạc
đang rơi. Một đàn cá chuồn bỗng xé nước bay lên vẽ trong không trung
những vòng cung bạc, và nhanh chóng biến mất như một ảo ảnh. Rồi gió.
Gió từ chân trời ngập tràn mặt biển. Gió ào đến bao bọc quấn quít lấy
tôi đang đứng trên con tầu đè sóng tiếp tục cuộc hành trình. Trời, biển,
gió ập vào tôi ý nghĩa được sống, được làm người và cảm giác — hơn thế —
khát vọng tự do.


Chữ đến với tôi từ rừng đại ngàn hoang vắng, hầm
hập nắng, không khí cây cối không một chuyển động, mồ hôi ròng ròng, cái
đói cắn vào bụng, quẩy đôi thùng ghép bằng gỗ thông, lủi vào một gốc
cây, đập quả dứa vỡ đôi, hai hàm răng chắc cắm phập vào mảnh dứa vỡ, gọn
như một cú đớp của hàm chó sói. Khợp.


Chữ của tôi là cô thôn nữ trong vườn vắng trèo lên cây bưởi hái hoa, bỗng thấy nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
khiến tôi xúc động. Là em bé mặt đỏ bừng, mồ hôi bết tóc đứng im lìm
trước con chuồn chuồn ớt đỏ tươi đỗ trên cọc rào của tuổi thơ tôi. Là
chuyến đi Ninh Bình khi hai mươi tuổi, ngơ ngác trước những con sóc đuôi
xù dựng đứng bay từ cây nọ sang cây kia, rồi buổi tối họp chi đoàn, hát
mẹ thương con có hay chăng chẳng nhìn ai nhưng cũng biết có những cặp mắt bồ câu đang hướng về mình, nghe bí thư chi đoàn hỏi người ngồi bên “đêm qua đi ngủ hến cắn hay sao mà ngáp thế”
bỗng thấy mình giầu thêm một chút. Chữ như bụi vàng tôi cần mẫn nhặt
nhạnh thu vén, tích cóp. Chữ như vỉa quặng còn tôi là người thợ mỏ đã
bốc hàng trăm tấn đất đá vẫn chưa tìm thấy. Thật vất vả, đúng là phu chữ
như Lê Đạt nói, và cũng như anh, tôi thích công việc phu phen. Khi đào
bới tôi là người khai phá, là người sáng tạo. Chữ của nhà văn là cuộc
sống, đúng hơn, cảm xúc trước cuộc sống anh thổi vào trong chữ. Cảm xúc
ấy làm chữ có hồn, chiếm lĩnh người đọc khiến Gorki phải giơ trang sách
lên trời soi xem có gì ở bên trong.


B.N.T.


([1])Tôi yêu cái tên bộ tứ này lắm vì nó
là sản phẩm của một thời, một chế độ, một chủ nghĩa, một đường lối quản
lý con người, vận hành xã hội, nó bám chặt và in dấu chàm lên cuộc đời
mỗi chúng ta.


(2) Thời gian này ông Quang đã cho con trai vượt
biên sang Mỹ và tôi cho rằng đây là việc làm đáng khen duy nhất trong
cuộc đời ông. Đáng khen ở chỗ ông chửi Mỹ rất ghê, và việc ông cho con
vượt biên sang Mỹ chứng tỏ ông thành thật: Ông yêu Mỹ. Không được sống ở
Mỹ thì ông cho con ông vượt biên sang Mỹ. Ông chẳng mấy tin ở cái chế
độ mà ông là một hàng chức sắc, đang hưởng lộc và ra sức bảo vệ.


(3 Chữ của Paustovsky.


(4) Tôi đã đưa vào tập 2 Chuyện Kể Năm 2000
lời nói khủng khiếp này của ông Lê Đức Thọ trong hội nghị cán bộ trung
cao cấp giải thích việc bắt các ông Vũ Đình Huỳnh, Hoàng Minh Chính,
Đặng Kim Giang…một câu nói khoá miệng mọi người, một câu nói khiến ai
cũng cảm thấy mình là người tù dự bị, có thể bị bắt bất cứ lúc nào.


(5) Ông này cũng họ Bùi với tôi đấy, Trần Đông
chỉ là bí danh thôi, theo cái mốt ai cũng có bí danh của những năm đầu
cách mạng tháng Tám, từ đấy tôi mới có một định đề là: Giết một thằng họ Bùi phải là thằng họ Bùi, hại một cha Nghệ Tĩnh phải là dân Nghệ Tĩnh.


(6) Cho đến khi bản thảo hoàn thành, Lê Bầu đọc và khuyên nên cắt bớt cái truyện ngắn Vợ Chồng Người Thợ Xóm Chiêu Thương đi
cho đỡ dài, dễ xuất bản, tôi đã nghe theo, một việc sau này tôi thấy
không nên làm, nên tôi đã khôi phục lại cùng với việc khôi phục bản gốc
trong lần báo Người Việt (California) in feuilleton năm 2009, gửi cho
dịch giả Tây Hà để ông dịch sang tiếng Pháp năm 2013, và đầu năm 2014
một fan của tôi (anh Nguyễn Chí Cư) bỏ tiền in 200 bản tuyệt đẹp chỉ để
tôi tặng bạn đọc và những người thân.


(7) Tôi nghĩ nếu tôi còn sống được đến hôm nay
khi đã 80 tuổi một phần là nhờ những ngày đó, tôi đã cố gắng viết xong
tập tiểu thuyết của đời mình, nếu không, có thể tôi đã mắc bệnh ung thư
di căn bởi cứ ôm mãi những oan trái trong lòng không được vợi bớt, không
có người chia xẻ.


(8) Vũ Trọng Phụng có một di cảo là Người Tù Được Tha nhưng tôi chưa được đọc.


(9) Chữ ở đây nên hiểu là từ, không phải chữ trong bảng chữ cái a,b,c…


(Xem tiếp kỳ sau





Share on Google Plus

About Unknown

Bài viết này được chia sẻ bởi Unknown.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét